Thân nhiệt quyết định sinh lão bệnh tử
- Thân nhiệt là trung tâm của sức khỏe, Chỉ cần tăng thân nhiệt có thể tiêu diệt mọi bệnh tật.
Thân nhiệt quyết định 2 yếu tố chi phối và quản lí mọi hoạt động của tất cả các cơ quan trong cơ thể. Não quản lí mọi cơ quan bộ phận hoạt động một cách hoàn hảo nhất để duy trì sự sống thông qua hệ thống dây thần kinh. Máu vận chuyển oxy và chất dinh dưỡng đi nuôi cơ thể và vận chuyển những chất thải, chất độc từ sự hoạt động của các cơ quan bộ phận trong cơ thể ra ngoài tạo điều kiện tốt nhất cho các cơ quan bộ phận trong cơ thể hoạt động hoàn hảo nhất. Đồng thời những tế bào bạch cầu trong máu cũng đóng vai trò như những binh sĩ bảo vệ sự an toàn cho toàn bộ cơ thể khỏi những tác nhân gây bệnh. Tất cả các cơ quan bộ phận trong cơ thể hoạt động như thế nào phụ thuộc vào hệ thần kinh và các cơ quan trong cơ thể hoạt động được hay không, mạnh hay yếu lại phụ thuộc vào máu. Nhưng cả 2 yếu tố này chỉ hoạt động tốt khi cơ thể duy trì được thân nhiệt ổn định là 36.5oC – 37oC. Khi hạ thân nhiệt làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự hoạt động của 2 yếu tố này mà sinh ra tất cả mọi bất thường trong cơ thể mà gây ra bệnh tật.
Thân nhiệt ổn định giúp cho hệ Thần kinh hoạt động thông suốt và chính xác, sẽ không có phát sinh bất cứ bất thường hay bệnh tật nào.
Hệ thần kinh được phân ra làm 2 loại là thần kinh trung ương và thần kinh ngoại biên. Trong đó hệ thần kinh trung ương giữ vao trò chủ đạo, nó quản lí tất cả mọi hoạt động trong cơ thể. Thần kinh ngoại biên là các hạch thần kinh và hệ thống dây thần kinh nối tất cả các cơ quan bộ phận với hệ thần kinh trung ương.
Cơ thể là một thực thể hữu cơ thống nhất của tất cả các cơ quan bộ phận. Mỗi một cơ quan bộ phận thực hiện một vai trò và chức năng khác nhau trong cơ thể nhưng chúng hoạt động có tổ chức và kết hợp hỗ tương cho nhau rất nhịp nhàng và chính xác dưới sự quản lí chặt chẽ của hệ thần kinh trung ương để duy trì sự sống.
Ví dụ: Mắt để nhìn, tai để nghe, miệng đưa thức ăn vào, bao tử tiêu hóa thức ăn, thận thanh lọc máu…
Tất cả các cơ quan bộ phận trong cơ thể chỉ có thể hoạt động tốt nhất khi được kết nối chặt chẽ với hệ thần kinh trung ương, điều đó cũng có nghĩa là tất cả các cơ quan bộ phận phải được kết nối hoàn hảo với não thì hoạt động của nó mới mang lại lợi ích cho cơ thể và nó mới trở thành thực thể cần thiết không thể thiếu trong cơ thể, đồng thời nó mới được hỗ trợ tốt nhất để thực hiện được vai trò và chức năng của nó. Bất cứ một cơ quan bộ phận nào không được kết nối hoàn hảo với não đều không thể hoạt động tốt mà còn cản trở hoặc gây hại cho cơ thể.
Ví dụ: Ruột non làm nhiệm vụ hấp thu các chất dinh dưỡng cần thiết vào trong máu để máu vận chuyển nó đi nuôi cơ thể. Nhưng ruột non chỉ thực hiện được vai trò và chức năng của nó khi nó được kết nối chặt chẽ với hệ thần kinh trung ương. Vì chỉ có hệ thần kinh trung ương mói biết rõ nhất tình trạng các chất dinh dưỡng trong cơ thể nên khi ruột non được kết nối với hệ thần kinh một cách hoàn hảo thì từ hệ thần kinh trung ương sẽ thông báo cho ruột non những thành phần chất và số lượng cần thiết để ruột non hấp thu vào. Do đó, khi ta ăn quá nhiều các chất dinh dưỡng, ruột non sẽ chọn lọc và chỉ hấp thu những thành phần chất và số lượng cần thiết còn những phần dinh dưỡng thừa thãi sẽ cho thải ra ngoài, nhờ đó ta mới giữ được vóc dáng cân đối và điều quan trọng là giữ được sự cân bằng về các thành phần chất trong cơ thể. Khi ta ăn thiếu một số chất dinh dưỡng, ruột non sẽ báo về cho hệ thần kinh trung ương biết là không có các thành phần chất cần thiết thì thần kinh trung ương lập tức xử lí thông tin và chỉ đạo cho ruột non hấp thụ những thành phầnvà số lượng chất khác để tạo thành những chất cần thiết cho cơ thể giữ cho cơ thể luôn ở trạng thái cân bằng.
Nhưng khi ruột non không được kết nối chặt chẽ hay tắc nghẽn với thần kinh trung ương, nó sẽ không biết được phải hấp thu những chất nào và số lượng là bao nhiêu. Do đó, nó sẽ hấp thu các trong thức ăn cũng như những chất độc hại lẫn trong đó, nếu lớp màng nhày này mỏng quá thì các chất một cách tự tiện dẫn đến một số thành phần chất thì quá thừa, một số thành phần chất thì quá thiếu, gây ra sự mất cân bằng trong cơ thể mà sinh ra bệnh. Bên cạnh đó, tuyến tiết chất nhầy phải tiết ra một lớp chất nhầy vừa đủ để bảo vệ ruột non khỏi sự ăn mòn của những axit dạ dày có axit bao tử và các chất độc hại có trong thức ăn rất dễ dàng xâm nhập vào thành ruột non gây tổn thương cho ruột non. Nhưng nếu lớp màng nhầy quá dày thì ruột non không thể hấp thu các thành phần chất một cách chính xác được. Do đó, khi ruột non kết nối thông suốt với thần kinh trung ương thì thần kinh trung ương nhận biết được tình trạng của ruột non một cách rõ ràng nhất nên thần kinh trung ương sẽ quản lí tuyến tiết chất nhầy tiết ra một lượng vừa đủ để tạo điều kiện thuận lợi cho ruột non hoạt động. Hoặc là khi ruột non bị các mầm bệnh tấn công nó sẽ không được các tế bào bạch cầu đến ứng cứu một cách kịp thời. Do sự kết nối với thần kinh trung ương không còn thông suốt nên nó không thể phát tín hiệu báo đến hệ thần kinh trung ương để vấn đề của nó được xử lý và hỗ trợ một cách kịp thời mà sinh ra bệnh cho ruột non.
Do đó, tất cả các cơ quan phải được kết nối chặt chẽ và thông suốt với thần kinh trung ương thì nó mới được hoạt động chính xác và hoàn hảo nhất. Nếu cơ quan bộ phận nào bị tắc nghẽn kết nối với thần kinh trung ương nó sẽ rời khỏi sự hoạt động nhịp nhàng của cơ thể thì nó sẽ gây tổn hại đến cơ thể và tổn hại cho chính bản thân nó. Não quản lý sự nhịp nhàng của cơ thể như nhạc trưởng tài ba chỉ huy các nhạc công để tạo nên một bản hợp ca hoàn hảo nhất. Thử tưởng tưởng một nhạc công nào đó không nhìn thấy nhạc trưởng và không chơi đúng vai trò của mình mà tạo ra một nhịp riêng sẽ làm hỏng bài hợp ca và hỏng luôn sự du dương trầm bổng của nhạc cụ của mình.
Ngày nay khoa học phát triển và người ta có thể hiểu và lí giải được rất sâu sắc quá trình hoạt động của các cơ quan bộ phận nhưng còn có rất nhiều cơ quan bộ phận trong cơ thể vẫn chưa được khám phá ra hết vai trò của nó cũng như còn rất nhiều điều xảy ra bên trong cơ thể mà khoa học vẫn chưa khám phá và lí giải được. Do đó, phương pháp an toàn nhất để bảo vệ cơ thể, bảo vệ sự hoạt động nhịp nhàng và hoàn hảo của cơ thể là trả cơ thể về trạng thái tự nhiên, có nghĩa là trả tất cả các cơ quan bộ phận trong cơ thể về cho thần kinh trung ương quản lí. Vì mỗi cơ quan bộ phận đều là những thành phần của một bộ máy hoàn hảo nhất mà khi thiếu đi hoặc thay thế bất cứ một bộ phận nguyên thủy nào bộ máy ấy cũng không thể hoạt động hoàn hảo được.
Vậy, sự kết nối chặt chẽ giữa các cơ quan bộ phận trong cơ thể với thần kinh trung ương phụ thuộc vào hệ thần kinh ngoại biên. Do đó, mọi cơ quan bộ phận trong cơ thể hoạt động phụ thuộc vào hệ thần kinh là vậy.
Cơ thể phải duy trì thân nhiệt ở nhiệt độ bình thường thì những xung động thần kinh mới được truyền tải một cách suôn sẻ. Vì chỉ khi cơ thể duy trì được thân nhiệt 36.5oC – 37oC thì các enzyme đặc hiệu trong tế bào thần kinh mới hoạt động được và nhờ vậy các xung điện thần kinh mới được dẫn truyền thuận lợi. Vì các enzym đặc hiệu này có chức năng phân giải chất trung gian hóa học để điều hòa sự dẫn truyền qua xy náp thần kinh. Khi các enzym này bị bất hoạt, cơ thể có thể gặp nguy hiểm. Khi cơ thể bị hạ thân nhiệt, các enzyme này trở nên không thể hoạt động được, các xung động thần kinh không được dẫn truyền từ cơ quan đến thần kinh trung ương và từ thần kinh trung ương đến các cơ quan mà gây ra tất cả những bất thường trong cơ thể mà sinh ra bệnh tật.
Bên cạnh đó, khi bị hạ thân nhiệt, lưu lượng máu đi nuôi các tế bào thần kinh thiếu thốn làm cho khả năng hoạt động của nó bị yếu đi. Nó cũng không được cung cấp đủ các thành phần chất để tạo thành các enzyme, các chất trung gian hóa học hay sinh điện để dẫn truyền các xung động thần kinh thông suốt. đồng thời những chất thải từ hoạt động của nó sẽ bị tích tụ lại làm cho nó dễ bị nhiễm độc mà sinh ra bất thường. Đặc biệt là hệ thần kinh trung ương, do nó là một bộ phận xử lý rất nhiều thông tin để điều hòa hoạt động của cơ thể nên hàm lượng o xy và chất dinh dưỡng rất cần thiết. Chỉ riêng não không thôi đã sử dụng hết 1/3 hàm lượng oxy trong cơ thể nên lượng máu lên não là quan trọng nhất. Khi bị hạ thân nhiệt, mạch máu lên não co lại và độ đàn hồi kém dẫn đến lượng máu lên não thiếu, các tế bào não không được cung cấp đầy đủ oxy và chất dinh dưỡng, đồng thời độc tố tích tụ làm cho việc xử lý các thông tin không còn chính xác mà gây ra các loại bệnh tật.
Tóm lại, cơ thể chỉ được hoạt động trong trạng thái hoàn hảo nhất khi hệ thần kinh hoạt động chính xác và thông suốt. Hệ thần kinh chỉ hoạt động chính xác và thông suốt chỉ khi nào cơ thể duy trì được thân nhiệt ổn định là 36.5oC – 37oC . Nên có thể nói rằng hạ thân nhiệt là nguồn gốc gây ra mọi bệnh tật cho con người.
Thân nhiệt luôn giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong việc lưu thông khí huyết. Vì khi hạ thân nhiệt làm cho mạch máu co lại đồng thời độ đàn hồi của thành mạch máu kém, các chất có trong thành mạch máu dễ lắng tụ và bám vào thành mạch làm cho lòng mạch bị hẹp lại dẫn đến lưu lượng máu đi nuôi các cơ quan bộ phận giảm đi, làm cho các tế bào bị thiếu hụt lượng oxy và dinh dưỡng cần thiết để duy trì hoạt động của nó. Điều này dẫn đến sự lão hóa sớm hơn của các tế bào cũng như giảm số lượng tế bào. Do các tế bào cấu thành các cơ quan bộ phận trở nên yếu đuối, già nua và suy giảm về số lượng nên các cơ quan bộ phận hoạt động kém và không đạt hiệu quả cao trong việc thực hiện chức năng và vai trò của nó mà gây ra bệnh tật.
Do đó việc duy trì thân nhiệt ổn định giúp mạch máu giãn nỡ, độ đàn hồi thành mạch máu tăng, các chất có trong lòng mạch ít lắng đọng và bám ở thành mạch, làm cho thành mạch thông thoáng dẫn đến lượng máu đi nuôi các tế bào cấu thành các cơ quan bộ phận ổn định, nhờ đó các tế bào được cung cấp đầy đủ oxy và dưỡng chất giúp nó duy trì sự sống và hoạt động tốt. Nhờ vậy, các cơ quan bộ phận mới thực hiện tốt vai trò chức năng của nó mà không gây ra bệnh tật.
Như vậy, các tế bào hoạt động mạnh hay yếu phụ thuộc chặt chẽ vào lượng oxy và dưỡng chất do máu cung cấp. Lượng máu cung cấp lại phụ thuộc vào thân nhiệt nên có thể nói rằng phải duy trì thân nhiệt ổn định để tất cả các cơ quan, bộ phận cơ thể hoạt động khỏe mạnh và sung mãn
Thân nhiệt ổn định – Thanh lọc cơ thể, môi trường bên trong cơ thể không bị nhiễm độc
Duy trì thân nhiệt ổn định giúp lượng máu lưu thông ổn định, nhờ đó mà những chất thải từ các tế bào, là sản phẩm của các quá trình hoạt động của tế bào, được vận chuyển ra ngoài. Nếu những chất thải này không được thải ra ngoài mà tích tụ trong cơ thể sẽ làm nhiễm độc cơ thể và lâu ngày sẽ âm thầm hủy hoại các cơ quan bộ phận trong cơ thể. Do những chất độc này không thể nhìn thấy bằng mắt thường nên chúng ta có thể không quan tâm và đề phòng nó nhưng khi nó tích tụ đủ lượng có thể gây tử vong.
Ví dụ con người có thể chết do bị nhiều con ong vò vẽ đốt nhưng không chết khi chỉ bị một vài con đốt. Càng bị nhiều con ong vò vẽ đốt thì nguy cơ tử vong càng cao. Như vậy cũng cho thấy nếu những chất thải trong cơ thể không được sớm vận chuyển ra ngoài, lâu ngày sẽ trở thành những chất độc hại và khi nó tích tụ đủ lượng có thể gây hại cho cơ thể và có thể gây tử vong.
Do đó, phải ổn định thân nhiệt để ổn định lưu lượng máu đi nuôi cơ thể đồng thời thanh lọc cơ thể bằng cách vận chuyển những chất thải trong cơ thể ra ngoài và không bị tích tụ lại trong cơ thể mà gây ra tình trạng nhiễm độc. Nhờ đó, các tế bào mới có thể hoạt động tốt.
Thân nhiệt ổn định – Miễn dịch mạnh mẽ, bệnh tật không thể xâm nhập, sinh sôi và phát triển.
Cơ thể chúng ta là một thực thể hữu cơ vô cùng hoàn hảo nên bên trong cơ thể luôn tồn tại một hệ thống bảo vệ cơ thể khỏi những tác nhân gây bệnh cũng như cơ thể hoàn toàn có khả năng tự điều trị cho bản thân mình. Cơ thể chúng ta bị bệnh hay không là do hệ thống này quyết định.
Ví dụ: trong một lớp học mẫu giáo có một bé bị bệnh tay chân miệng nhưng không phải tất cả các bé trong lớp đó bị lây nhiễm cùng một lúc với nhau. Trong lớp sẽ có một số bé bị lây nhiễm trước và một số bé bị lây nhiễm sau và cũng có một số bé hoàn toàn không bị lây nhiễm. Các bé có bị lây nhiễm sớm hay muộn, nặng hay nhẹ hoặc không bị lây nhiễm hoàn toàn phụ thuộc vào hệ miễn dịch của các bé. Bé nào có hệ miễn dịch tốt sẽ bị nhiễm bệnh nhẹ còn các bé có miễn dịch kém sẽ bị nhiễm nặng còn bé nào có miễn dịch thật tốt sẽ không bị nhiễm bệnh.
Trong một nhóm người cùng sinh hoạt với nhau nhưng có một người bị cảm cúm thì không phải tất cả mọi người đều đồng loạt bị cảm cúm, mà người nào miễn dịch yếu kém sẽ bị trước, người nào miễn dịch tốt hơn sẽ bị sau và người nào miễn dịch mạnh thì không bị. Mức độ nhiễm bệnh nặng nhẹ cũng phụ thuộc vào các tế bào miễn dịch. Nên có thể nói rằng hệ miễn dịch quyết định cơ thể ta khỏe mạnh hay bệnh tật.
Không có một phương pháp điều trị nào hoàn hảo hơn phương pháp tự điều trị của cơ thể.
Ví dụ: Khi ta bệnh ta có thể uống các loại thuốc nhưng thuốc đó muốn phát huy được tác dụng của nó thì nó phải được sự tiếp nhận của cơ thể. Giả sử thuốc đó có là thần dược đi chăng nữa nhưng nó không được cơ thể tiếp nhận mà cho thải ra ngoài theo đường hậu môn thì nó cũng không mang lại hiệu quả chữa bệnh. Hay là khi ta cấy ghép các bộ phận khác vào trong cơ thể cũng phải được cơ thể tiếp nhận thì nó mới hoạt động được, còn khi cơ thể không tiếp nhận thì phải tháo nó ra. Nên tất cả các phương pháp y học dù là Đông Y hay Tây y cũng chỉ là những phương pháp hỗ trợ cho cơ thể, còn việc tận dụng nó như thế nào bên trong cơ thể thì chỉ có cơ thể mới quyết định được. Do đó, có những người bệnh giống nhau, uống thuốc giống nhau nhưng khả năng và tốc độ phục hồi lại khác nhau. Hoặc cũng trong cùng một loại phẫu thuật với các vết thương hở giống nhau nhưng quá trình tiếp nhận thuốc khác nhau và khả năng phục hồi vết mổ cũng khác nhau…. Như vậy, các phương pháp hỗ trợ phải hỗ trợ cho cơ thể nếu không sẽ trở thành cản trở quá trình tự điều trị của nó mà gây hại cho cơ thể.
Cơ thể hoàn toàn có khả năng tự chữa bệnh cho mình.
Ví dụ: Khi ta ăn phải những thức ăn nhiễm độc cơ thể sẽ cho tống nó ra ngay lập tức bằng cách nôn ói hay tiêu chảy. Khi ta bị thương và máu chảy ra lập tức các tiểu cầu thực hiện chức năng đông máu và bạch cầu cũng có mặt thật nhanh chóng để ngăn chặn không cho vi khuẩn theo vết thương xâm nhập vào cơ thể nhờ đó nó được bảo vệ để tái tạo những tế bào mới.
Khi ta bị bệnh cơ thể sẽ tiết ra dịch vị làm đắng miệng để ta không ăn. Vì khi ta bị bệnh cơ thể phải tập trung cao độ cho vùng bị nhiễm bệnh để đánh đuổi tác nhân gây bệnh cũng như sửa chữa những tổn thương do bệnh gây ra nên khi đó nếu ta ăn thức ăn vào thì cơ thể phải tập trung 40% lượng máu đến bao tử để tiêu hóa thức ăn. Do đó, cơ thể tiết ra dịch vị gây đắng miệng để ta không ăn nhờ đó mới tập trung toàn lực vào việc trị bệnh. Giả sử ta có cố ăn vào thì cơ thể cũng cho nôn ói ra hết.
Hoặc khi ta đau đầu, đau bụng hay bị nôn ói là vì lúc đó cơ thể đang cần tập trung đưa máu đến bộ phận nhiễm bệnh để trị bệnh nhưng trong dạ dày vẫn còn lượng thức ăn phải tiêu hóa thì cơ thể vẫn phải tập trung cho việc tiêu hóa thức ăn mà không tập trung toàn lực vào việc chữa bệnh được nên sẽ xuất hiện nôn ói hết thức ăn đó ra để cơ thể tập trung cho việc trị bệnh.
Hoặc khi ta bị nhiễm trùng cơ thể sẽ tăng thân nhiệt lên hay còn gọi là sốt để máu được loãng hơn, mạch máu giãn nở hơn để oxy và dưỡng chất được cung cấp kịp thời cho bạch cầu trong quá trình chiến đấu chống bệnh tật. Đồng thời cơ thể phải tăng thân nhiệt để các tế bào thần kinh hoạt động chính xác hơn nhờ đó chỉ đạo kịp thời quá trình đấu tranh của bạch cầu và điều khiển tất cả các cơ quan bộ phận hỗ trợ bạch cầu đấu tranh tiêu diệt mầm bệnh.Vì trong cơ thể hệ miễn dịch hoạt động mạnh hay yếu phụ thuộc vào các tế bào bạch cầu. Mà trong cơ thể số lượng bạch cầu luôn duy trì ở một số lượng nhất định. Khi có tác nhân gây bệnh xuất hiện lập tức các bạch cầu sẽ nhanh chóng tăng nhanh số lượng để tiêu diệt mầm bệnh. Do đó, khi vi khuẩn gây bệnh đông hơn và mạnh hơn cơ thể sẽ tăng thân nhiệt để giúp máu lưu thông tốt hơn nhờ đó oxy và dinh dưỡng được cung cấp kịp thời cho bạch cầu để nó có đủ sức mạnh chiến đấu với bệnh tật đồng thời nhờ oxy và dưỡng chất được cung cấp tốt hơn nên quá trình tăng bạch cầu cũng được thực hiện nhanh chóng hơn. Nhờ tăng thân nhiệt, máu loãng hơn giúp cho bạch cầu di chuyển nhanh hơn.
Do đó, thân nhiệt có vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sức mạnh của hệ thống miễn dịch. Muốn cơ thể khỏe mạnh phải duy trì hệ thống miễn dịch mạnh mẽ và chính xác. Muốn hệ thống miễn dịch hoạt động mạnh mẽ và chính xác phải duy trì thân nhiệt tốt. nên ta có thể nói rằng thân nhiệt ổn định giúp miễn dịch mạnh mẽ, bệnh tật không thể xâm nhập, sinh sôi và phát triển.
Từ những yếu tố trên cho ta thấy thân nhiệt giữ vai trò quyết định hoàn toàn tình trạng sức khỏe của cơ thể. Do đó có thể kết luận rằng thân nhiệt chính là căn nguyên của sức khỏe và là nguồn gốc của tất cả mọi bệnh tật. Một bệnh tật có thể do nhiều nguyên nhân gây ra nhưng nguồn gốc của nó chỉ có một đó chính là thân nhiệt. Hạ thân nhiệt chính là nguồn gốc dẫn đến những nguyên nhân gây ra bệnh tật. Chỉ cần duy trì và ổn định thân nhiệt ở nhiệt độ 36.5oC – 37oC thì có thể sống khỏe mạnh, không đau đớn, không bệnh tật đến 125 tuổi. - a. Ba yếu tố cần thiết cho cơ thể hoạt độngTrong cuộc sống của con người điều gì là quan trọng nhất? Tiền, tình yêu, sức khỏe…có rất nhiều câu trả lời nhưng tất đều không đúng. So với tất cả yếu tố trên thì không có yếu tố nào quan trọng bằng việc duy trì sinh mạng. Cho dù có tiền, tình yêu hay sức khỏe mà không có sinh mạng thì không có ý nghĩa gì cả.Để hoạt động sự sống của con người bình thường thì có 3 yếu tố không thể thiếu được đó là: không khí, nước và thức ăn. Trong 3 yếu tố này chỉ cần thiếu một yếu tố là con người sẽ chết. Nhưng cho dù có đầy đủ 3 yếu tố trên thì những điều kiện cơ bản để duy trì mạng sống vẫn chưa đủ.Đại đa số người ta thường quên một yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu đó chính là thân nhiệt.Tại sao thân nhiệt lại quan trọng?Giả sử có người bị chìm thuyền và rớt xuống nước biển lạnh lẽo và người đó may mắn bám vào được một tấm ván to và leo lên trên miếng ván thoát khỏi nước biển, vậy cái mà người đó cần nhất lúc đó là gì? Người đó nổi lên trên mặt nước thì sẽ thở được. Theo y học thì con người ta có thể sống được 3 ngày khi bị thiếu nước và một tuần khi bị thiếu ăn. Nhưng giả sử nước biển lạnh và thân nhiệt của người đó tiếp tục hạ xuống thì sao? Nếu người đó không may thì không thể qua khỏi một ngày và chết vì chứng hạ thân nhiệt.Thân nhiệt bình thường là thân nhiệt từ 36.5oC – 37oC. Chứng hạ thân nhiệt là khi thân nhiệt hạ xuống dưới 35.5 độ C. Chúng ta có thể bị hạ thân nhiệt từ những hành động vô ý của chúng ta như ngủ trong phòng máy quạt, máy lạnh để nhiệt độ quá thấp, mặc quần áo mỏng đi ra ngoài khi trời quá lạnh hay mặc quần áo hở hang khi đi ngủ… chứ chưa cần phải không may gặp tai nạn ở một nơi lạnh lẽo.Chỉ cần hạ thân nhiệt như vậy thôi cũng đủ làm cho quá trình chuyển hóa không được diễn ra trôi chảy làm cho các chức năng trên cơ thể như tim, não, phổi …yếu đi, huyết áp giảm xuống, nếu mà nghiêm trọng thì có thể dẫn đến tử vong.b. Những triệu chứng gì sẽ xảy ra khi hạ thân nhiệt đột ngột?36-35℃ - Xuất hiện những triệu chứng thấy lạnh, run, khả năng tư duy và phán đoán giảm xuống, bước đi chậm.35-33℃ - Run bần bật không thể khống chế, nói không thành câu và không rõ từ. Khả năng tư duy và phán đoán suy giảm rõ rệt, bị choáng, bước đi lảo đảo.31-29℃ - Các cơ co cứng, nhịp thở và mạch rất yếu, giảm nhịp thở, nhịp tim và hôn mê.
Thông qua điều trên ta thấy rằng thân nhiệt ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động của các cơ quan trong cơ thể là một sự thật quá rõ rang. Nếu thân nhiệt không được duy trì ở mức bình thường thì các cơ quan trong cơ thể ta khó thực hiện được chức năng của nó. Thường thì khi ta bị tăng thân nhiệt (bị sốt) thì mới nghĩ rằng cơ thể có vấn đề nhưng trên thực tế thân nhiệt tăng hay giảm đều nguy hiểm như nhau. Nếu thân nhiệt giảm một độ thì ta không thể nói rằng cơ thể khỏe mạnh được vì ở thân nhiệt đó chúng ta đang bị đe dọa về tính mạng. Nhưng trên thực tế không mấy ai nhận biết được điều này.c. Tại sao phải duy trì thân nhiệt ở 36.5-37oC mà không phải là nhiệt độ nào khác?
Vì cơ thể được duy trì sự sống thông qua quá trình chuyển hóa mà chất xúc tác của nó chính là các loại enzyme. Từ việc dẫn truyền xung điện thần kinh từ tế bào này qua tế bào khác để quản lí cơ thể cũng phải có sự hiện diện của các enzyme đặc hiệu hay quá trình thụ thai cũng phải có các enzyme đặc biệt hoạt động tốt thì tinh trùng mới có thể chui vào trong trứng….
Do các enzyme trong cơ thể hoạt động tốt nhất ở nhiệt độ 36.5℃~37℃ nên ở nhiệt độ này dưới vai trò xúc tác của các enzyme thì mọi hoạt động của cơ thể mới được hoạt động bình thường. Do đó mà thân nhiệt luôn phải duy trì ở nhiệt độ 36.5℃~37℃.0Thêm nhận xét
- Trong cuộc sống của con người điều gì là quan trọng nhất? Tiền, tình yêu, sức khỏe…có rất nhiều câu trả lời nhưng tất đều không đúng. So với tất cả yếu tố trên thì không có yếu tố nào quan trọng bằng việc duy trì sinh mạng. Cho dù có tiền, tình yêu hay sức khỏe mà không có sinh mạng thì không có ý nghĩa gì cả.Để hoạt động sự sống của con người bình thường thì có 3 yếu tố không thể thiếu được đó là: không khí, nước và thức ăn. Trong 3 yếu tố này chỉ cần thiếu một yếu tố là con người sẽ chết. Nhưng cho dù có đầy đủ 3 yếu tố trên thì những điều kiện cơ bản để duy trì mạng sống vẫn chưa đủ.Đại đa số người ta thường quên một yếu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu đó chính là thân nhiệt.Tại sao thân nhiệt lại quan trọng?Giả sử có người bị chìm thuyền và rớt xuống nước biển lạnh lẽo và người đó may mắn bám vào được một tấm ván to và leo lên trên miếng ván thoát khỏi nước biển, vậy cái mà người đó cần nhất lúc đó là gì? Người đó nổi lên trên mặt nước thì sẽ thở được. Theo y học thì con người ta có thể sống được 3 ngày khi bị thiếu nước và một tuần khi bị thiếu ăn. Nhưng giả sử nước biển lạnh và thân nhiệt của người đó tiếp tục hạ xuống thì sao? Nếu người đó không may thì không thể qua khỏi một ngày và chết vì chứng hạ thân nhiệt.Thân nhiệt bình thường là thân nhiệt từ 36.5oC – 37oC. Chứng hạ thân nhiệt là khi thân nhiệt hạ xuống dưới 35.5 độ C. Chúng ta có thể bị hạ thân nhiệt từ những hành động vô ý của chúng ta như ngủ trong phòng máy quạt, máy lạnh để nhiệt độ quá thấp, mặc quần áo mỏng đi ra ngoài khi trời quá lạnh hay mặc quần áo hở hang khi đi ngủ… chứ chưa cần phải không may gặp tai nạn ở một nơi lạnh lẽo.Chỉ cần hạ thân nhiệt như vậy thôi cũng đủ làm cho quá trình chuyển hóa không được diễn ra trôi chảy làm cho các chức năng trên cơ thể như tim, não, phổi …yếu đi, huyết áp giảm xuống, nếu mà nghiêm trọng thì có thể dẫn đến tử vong.1
Xem nhận xét
Ngày này, không phân biệt già trẻ lớn bé, số lượng người bị giảm dần thân nhiệt ngày càng nhiều.
Thông thường những người đang bị bệnh thì thân nhiệt của họ là dưới 36℃ nhưng khi họ khỏi bệnh thì thân nhiệt của họ lại trên 36.5℃, cho nên bất cứ 1 người nào giữ được thân nhiệt trên 36.5℃ thì họ chẳng bao giờ mắc bệnh gì cả. Những người mắc các bệnh như ung thư, cao huyết áp, thấp khớp, dị ứng hay tất cả các loại bệnh tật khác đều có 1 điểm chung là thân nhiệt người ta thấp (dưới 36℃). Chính vì lí do đó mà chúng ta phải tích cực thay đổi thói quen sinh hoạt hàng ngày để tránh bị giảm thân nhiệt.
Thân nhiệt bị giảm hay còn gọi là chứng giảm thân nhiệt sẽ làm cho hệ miễn dịch giảm hay người ta có thể nói rằng khí lạnh là căn nguyên của hàng vạn bệnh tật.
So với ngày xưa thì tuổi thọ con người ngày nay sống thọ hơn nhưng số lượng người đau bệnh thì lại tăng cũng như số lượng bệnh tật cũng tăng lên rất nhiều lần và điều này đã trở thành những vấn đề kinh tế, xã hội rất nghiêm trọng của rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới.
Nguyên nhân lớn nhất làm cho con người đau bệnh và nó cũng dẫn đến tất cả mọi bệnh tật đó chính là thân nhiệt bị giảm đi hay còn gọi là chứng giảm thân nhiệt.
Rất nhiều nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và phát hiện ra rằng thân nhiệt chính là điều kiện sống còn của hệ miễn dịch nên chỉ cần thân nhiệt giảm 1 độ thì hệ miễn dịch giảm 30% .
Chính vì điều đó mà bất cứ khi nào bị giảm thân nhiệt ta đều có khả năng mắc các bệnh như ung thư hay bất kì bệnh tật nào, thân nhiệt càng giảm nhiều thì khả năng mắc bệnh càng cao. Nhưng sự thật rất quan trọng là không có mấy nguời nhận biết rằng được cơ thể họ đang bị giảm thân nhiệt cũng như hầu như không ai biết được chứng giảm thân nhiệt chính là nguyên nhân gây ra mọi bệnh tật mà bản thân họ đang phải chịu đau đớn vì nó.
Chỉ cần phục hồi thân nhiệt về trạng thái bình thường thì có thể giải phóng được mọi sự đau đớn vì bệnh tật. Cái lạnh bên trong cơ thể chính là căn nguyên của mọi bệnh tật là vì khi cơ thể bị lạnh thì mạch máu sẽ co lại làm cho máu lưu thông bị giảm đi mà khi máu lưu thông kém thì mọi cơ quan bộ phận sẽ bị thiếu ô xy và chất dinh dưỡng đồng thời những chất thải từ cơ thể sẽ không được máu vận chuyển bài tiết ra ngoài và những chất thải này cứ tích lũy dần và trở thành độc tố trong cơ thể, chính những chất độc tích tụ trong cơ thể này sẽ âm thầm phá hủy các cơ quan bộ phận là nguyên nhân gây ra mọi bệnh tật cho con người.
Thân nhiệt là hạt nhân (trung tâm) của sức khỏe, Chỉ cần tăng thân nhiệt có thể tiêu diệt mọi bệnh tật.
Con người thuộc động vật máu nóng nên có khả năng duy trì thân nhiệt ổn định mà không chịu tác động bởi nhiệt độ môi trường xung quanh (khi khỏe mạnh).
Cùng là động vật máu nóng nhưng thân nhiệt ở mỗi loài là khác nhau. Loài có thân nhiệt cao nhất là loài chim, nó có thân nhiệt từ 41℃~43℃. Sở dĩ mà loài chim lại có thân nhiệt cao là vì loài chim là loài bay trên trời mà khi bay thì nó phải nâng cơ thể lên trên không trung thì mới bay được nên nó cần phải tập trung năng lượng rất lớn thì mới làm được điều đó.
Điều đó chứng tỏ rằng thân nhiệt giữ vai trò cực kì quan trọng trong việc duy trì sức khỏe. Thân nhiệt và hệ miễn dịch có mối quan hệ mật thiết với nhau, ví dụ như cơ thể bị nhiễm vi khuẩn hay virus thì ta liền bị sốt để tăng thân nhiệt nhằm tăng hệ miễn dịch tiêu diệt virus hay vi khuẩn đó.
Theo một báo cáo khoa học của Viện nghiên cứu an toàn phòng chống bệnh tật của chính phủ Nhật Bản thì khi thân nhiệt gia tăng lên 39.6℃ thì những tế bào ung thư tử cung bị tiêu diệt ngay lập tức trong khi các tế bào khỏe mạnh khác thì không hề bị tổn thương hay ảnh hưởng gì cả. Điều đó có nghĩa rằng chỉ cần tăng thân nhiệt thì có thể phòng chống hay thậm chí có thể chữa lành các bệnh chưa có thuốc chữa như ung thư . Chính vì vậy mà nhân tố quan trọng nhất trong việc duy trì sức khỏe và phòng chống bệnh tật chính là việc duy trì thân nhiệt ở mức bình thường (36.5℃ - 37℃).
Thân nhiệt khác nhau ở mỗi thời điểm và mỗi cơ quan bộ phận.
Thân nhiệt thay đổi trong suốt ngày và nó thấp nhất vào buổi sáng sớm và nó tăng dần trong ngày. Thân nhiệt bình thường của một con người sống được thì cho dù thấp thế nào đi chăng nữa thì cũng phải trên 35℃ . Thân nhiệt cũng khác nhau tùy theo từng bộ phận trên cơ thể như những bộ phận ngoài cùng tiếp xúc với môi trường bên ngoài nên có thân nhiệt thấp nhất. Nếu đo nhiệt độ dưới lưỡi thì khoảng 36.5℃~36.7℃, còn đo nhiệt độ dưới nách thì nó thấp hơn. Thông thường người ta hay đo nhiệt độ ở nách nên nếu đo được 36.5℃ thì đó là thân nhiệt bình thường. Nhưng não, ruột… thì thân nhiệt luôn phải duy trì từ 37.2℃
Thân nhiệt luôn biểu hiện tình trạng của cơ thể và nó có vai trò quan trong nhất trong việc duy trì sự sống cho nên chúng ta phải luôn luôn thường xuyên đo thân nhiệt mỗi ngày để biết được cơ thể của mình đang ở tình trạng nào. Một thân nhiệt khỏe mạnh luôn luôn nằm trong phạm vi 36.5℃~37℃. Chúng ta phải biết được rằng việc làm thế nào để duy trì thân nhiệt ở 36.5℃ chính là bước ngoặt để quyết định cơ thể ta đau bệnh hay khỏe mạnh. Những cơ quan ở sâu trong cơ thể ta phải luôn được duy trì từ nhiệt độ 37.2℃ nên cơ thể ta luôn phải điều chỉnh thân nhiệt để đạt được điều đó. Khi thời tiết nóng thì mồ hôi chảy ra làm mát cơ thể còn khi trời lạnh thì mạch máu co lại để tránh phát tán thân nhiệt.
Khi khí lạnh xâm nhập vào trong cơ thể (hạ thân nhiệt) làm cho khả năng trị bệnh tự nhiên (hệ miễn dịch) của con người giảm xuống dẫn đến sinh ra các loại bệnh tật.
Khi con người mắc bệnh như đau khớp, có triệu chứng đau hay khó chịu ở bộ phận nào đó … từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau thì người giải quyết vấn đề đó 1 cách tuyệt vời nhất không phải là bệnh viện hay bác sĩ ở bên ngoài cơ thể mà sự thật chính là nhờ bác sĩ ở bên trong cơ thể chúng ta. Khi bên trong cơ thể xuất hiện những triệu chứng bất thường thì người bác sĩ bên trong cơ thể này hoàn toàn có khả năng tự điều chỉnh cho chúng ta và người ta gọi đó chính là khả năng tự điều trị tự nhiên. Tất cả mọi con người đều có vị bác sĩ của riêng minh bên trong cơ thể. Điều quan trọng là chúng ta phải tạo điều kiện thuận lợi cho vị bác sĩ tuyệt vời nhất bên trong cơ thể được hoạt động tốt. Việc tận dụng được vị bác sĩ tuyệt vời nhất hay còn gọi là khả năng trị bệnh tự nhiên chính là phương pháp điều trị bệnh tuyệt vời nhất, căn bản nhất mà không có tác dụng phụ. Nhưng nếu khí lạnh (hạ thân nhiệt) xâm nhập vào bên trong cơ thể của chúng ta thị vị bác sĩ tuyệt vời nhất hay còn gọi là khả năng trị bệnh tự nhiên của ta sẽ bị yếu đi. Và sự độc hại nhất của khí lạnh này là nó làm tắc nghẽn việc lưu thông khí huyết trong cơ thể mà sinh ra các bệnh. Chính vì điều đó mà chỉ cần đẩy lùi khí lạnh ra khỏi cơ thể thì sẽ làm cho vị bác sĩ bên trong cơ thể (khả năng trị bệnh tự nhiên) mạnh lên thì mọi bệnh tật sẽ nhanh chóng được đẩy lùi ra ngoài.
Cơ thể dùng nhiệt để duy trì sự sống nên chỉ cần thêm hay giảm bớt 1℃ thì sức khỏe sẽ chịu ảnh hưởng cực kì lớn.
Vì cơ thể con người dùng nhiệt để duy trì sự sống nên nếu nhiệt độ cơ thể lên trên 40℃ thì các cơ quan bộ phận trong cơ thể sẽ không chịu nổi mà chết, hay ngược lại nếu thân nhiệt giảm xuống còn 35℃ hay 34℃ thì các cơ quan bộ phận trong cơ thể sẽ mất hết khả năng hoạt động dẫn đến nguy hiểm cho tính mạng. Trong 1 năm thì số người chết vào mùa đông nhiều hơn mùa hè và đặc biệt là khi giao mùa, trong 1 ngày thì số người chết nhiều nhất là vào lúc 1 giờ 30 phút đến 3 giờ 30 phút sáng. Lý do mà số người chết vào mùa đông nhiều hơn mùa hè hay nhiều nhất khi giao mùa, hoặc là vào sáng sớm nhiều hơn chiều tà là do thân nhiệt. Vì vào sáng sớm cơ thể bị lạnh còn vào mùa mùa đông thì cơ thể bị cái lạnh xâm nhập từ bên ngoài vào làm cho cơ thể bị lạnh dẫn đến tỉ lệ tử vong cao. Nhưng ở những quốc gia có thời tiết nóng thì số người tử vong nhiều hay dễ bị mắc bệnh hơn vào mùa hè, vì khi thời tiết nóng bức liên tục làm cơ thể phải hạ thân nhiệt để thích nghi với cái nóng bên ngoài, nên cái lạnh của những người sống ở những vùng khí hậu nóng thì cái lạnh xuất phát từ bên trong, nên nó sẽ khó bị đẩy lùi ra ngoài hơn. Chính vì điều đó mà việc duy trì thân nhiệt trở nên cực kì quan trọng. Trong 1 ngày lúc thân nhiệt cao nhất và lúc thân nhiệt thấp nhất chỉ cách nhau có 1℃ thôi. Nhưng chúng ta không thể xem thường sự chệnh lệch 1℃ này được, vì chỉ cần chênh lệch 1℃ này thôi cũng đủ làm cho cơ thể chúng ta cả về thể xác lẫn tinh thần phải khốn đốn nên chúng ta phải ghi tâm khắc cốt điều này để luôn duy trì thân nhiệt ổn định đặc biệt là khi giao mùa hay vào buổi sáng sớm.
4 nguyên nhân làm cho người hiện đại bị lạnh cơ thể (giảm thân nhiệt)
Thứ nhất là thiếu vận động. Những bộ phận sản sinh ra nhiệt cho cơ thể chúng ta là các khối cơ
22%, gan 20%, não 18%, tim 11%, thận 7%, da 5%, những bộ phận khác khoảng 17%. So với ngày xưa thì người hiện đại ngày nay ít vận động thể xác làm cho các khối cơ không được mạnh khỏe nên nó không thể sinh ra nhiệt được. Để đẩy khí lạnh ra khỏi cơ thể thì các cơ phải vận động khỏe mạnh mà 70% các khối cơ tập trung từ lưng eo trở xuống nên việc chạy bộ hoặc đi bộ sẽ giúp cho các cơ ở lưng eo và ở chân mạnh khỏe mạnh hơn
Thứ 2 là do bị stress quá độ. So với ngày xưa thì ngày nay người ta đang phải sống và làm việc trong tình trạng bị stress quá nặng. Stress quá độ làm cho con người luôn căng thẳng và quá nhạy cảm, chính điều đó làm cho tất cả các chức năng trong cơ thể tăng nhanh làm cho các khối cơ bị cang thẳng, mạch máu co lại, máu lưu thông kém đi, làm cho thân nhiệt bị giảm đi ở 1 số cơ quan dẫn đến giảm thân nhiệt. Chính vì điều đó mà khi bị stress thì chúng ta phải tự mình tìm mọi cách để giải tỏa căng thẳng cho bản thân mình, không để bị giảm thân nhiệt.
Thứ 3 là ăn uống quá độ. So với ngày xưa thì ngày nay người ta ăn uống rất quá độ. Khi ăn uống quá độ máu phải tập trung chảy đến bao tử để giúp bao tử có đủ sức để tiêu hóa thức ăn. Dẫn đến lưu lượng máu đi nuôi não và cơ bắp bị thiếu hụt làm cho thân nhiệt giảm xuống. Do đó chúng ta phải ăn uống điều độ cũng như là tránh ăn những loại trái cây có tính hàn làm lạnh cơ thể như chuối, thơm, quýt, dưa, dưa hấu… vào mùa hè.
Thứ 4 là người hiện đại ngày nay quá ỷ y vào thuốc. Đại đa số các dược phẩm hóa học (các loại thuốc) làm cho cơ thể bị lạnh đi. Thông thường khi bệnh nhân bị đau thì hay được các bác sĩ kê thuốc giảm đau nhưng thuốc giảm đau còn được gọi là thuốc giải nhiệt giảm đau nên đúng như ý nghĩa của nó, nó làm cho thân nhiệt bị giảm. Chúng ta phải ghi nhớ 1 sự thật là khi bị bệnh cao huyết áp, tiểu đường, gan…thì chúng ta phải uống thuốc trong thời gian dài làm cho cơ thể rất lạnh chính điều đó làm cho đề kháng giảm đi làm cho cơ thể rất dễ dàng mắc các bệnh khác. Chính vì điều đó mà những người hay uống thuốc hay uống thuốc trường kì phải cố gắng luyện tập cho cơ thể có khả năng chịu đựng được mà không cần uống thuốc. Chúng ta phải cố gắng hết sức để phòng chống sự giảm thân nhiệt.
Quá trình chứng hạ thân nhiệt làm phát triển các mầm bệnh.
Khi thân nhiệt giảm thì điều đầu tiên là nó làm cho mạch máu co lại, làm cho máu lưu thông kém đi. Khi máu lưu thông kém đi thì các tế bào bên trong cơ thể không được cung cấp đủ ô xy và dinh dưỡng cần thiết để sống và hoạt động. Chính điều đó làm cho các tế bào không thể hoạt động được làm cho các chức năng của các cơ quan bộ phận trong cơ thể hoạt động kém đi đồng thời khi máu lưu thông kém thì những chất thải trong cơ thể không được vận chuyển ra ngoài, mà nó sẽ tích tụ lại thành cục máu đông hay nó tụ lại trở thành chất độc âm thầm phá hủy cơ thể từ bên trong và sinh ra các loại bệnh. Y học hiện đại ngày nay phải thừa nhận rằng khi độc tố tích lũy dần dần trong cơ thể đến 1 lúc nào đó mà cơ thể ta không còn chịu nổi nữa và khi đi khám thì mới phát hiện ra bệnh nên bệnh còn được gọi là sự tích lũy dần độc tố đến khi bộ phận đó không chịu nổi nữa, nó bị tổn thương và sinh ra đau đớn. Quá trình bệnh bắt đầu diễn ra khi mà những độc tố bắt đầu tích tụ ở đâu đó bên trong cơ thể cho đến khi nó không chịu nổi nữa và bắt đầu xuất hiện ra những triệu chứng bên ngoài như tổn thương mạch máu, tiểu tiện, biến đổi tế bào, mọc mụn hoặc loét ngoài da… nhưng phải chờ đến khi đi khám có kết quả rồi mới được kết luận là đang bị bệnh rồi mới được chữa trị. Như thế là quá trễ. Trong y học phương Tây ngày nay, khi người ta có rất nhiều những triệu chứng đau ở đâu đó thì tuyệt đối chưa biết được đó là bệnh gì mà phải chờ cho tới khi khám xong mới biết là bệnh gì, do đâu mà bị và thường là khi đó bệnh đã trở nặng và quá trình điều trị trở nên khó khăn, tốn kém và lâu dài.
Nói tóm lại là tất cả mọi bệnh tật đều liên quan mật thiết đến thân nhiệt nên ta phải luôn giữ gìn thân nhiệt và phòng chống khí lạnh xâm nhập vào cơ thể.
Những triệu chứng xảy ra theo cấp độ khi thân nhiệt giảm
Khi giảm thân nhiệt từ nhiệt độ ổn định ở cấp độ 1 thì triệu chứng của nó là cảm thấy mệt mỏi, uể oải cả về thể xác lẫn tinh thần. Chính sự mệt mỏi, uể oải cả về thể xác lẫn tinh thần là căn nguyên của mọi bệnh tật. Khi giảm thân nhiệt từ nhiệt độ ổn định ở cấp độ 2 thì các triệu chứng của nó là đau vai, đau cổ, đau lưng, đau đầu gối, đau chân… tất cả các khớp và cơ toàn thân đều xuất hiện đau nhức.
Phương pháp chẩn đoán xem trong cơ thể ta có bị lạnh hay không.
Thân nhiệt có vai trò duy trì sự sống và cơ thể khỏe mạnh cũng như là giúp cơ thể ta phòng chống hay điều trị bệnh tật, thế nhưng mà đại đa số con người ta vẫn sống không hề nhận biết hay cảm nhận đựơc mình đang bị giảm thân nhiệt và khí lạnh đang ẩn trốn trong cơ thể của mình. Có 1 phương pháp giúp chúng ta nhận biết được trong cơ thể của mình có tồn tại khí lạnh đang lẩn trốn hay không. Ví dụ như bàn tay bị lạnh, hay bụng dưới bị lạnh thì đích thị cơ thể đó đang bị lạnh hay bị giảm thân nhiệt. và cũng có rất nhiều trường hợp người ta không thể nhận biết được rằng cơ thể họ đang bị lạnh (giảm thân nhiệt) do cơ thể họ không xuất hiện những triệu chứng như trên. Theo phương pháp tự chẩn đoán xem cơ thể mình có bị lạnh hay không thì khi vào phòng xông hơi hay tiếp xúc với những máy nhiệt thì cảm thấy không chịu nổi, khó chịu hay không chịu được máy lạnh hay quạt máy phà vào người thì đích thị nguời đó bị lạnh và khí lạnh đang ẩn nấu đâu đó sâu trong cơ thể nên mới không chịu nổi hoặc là có những dấu hiệu sau như nửa người trên đặc biệt là vùng mặt dễ bị đỏ lên, dễ chảy mồ hôi, hay bị choáng, không chịu nổi cái nóng hay thời tiết nóng, khó chịu hoặc không thể chịu nổi khi đi trong nắng nóng, không tắm được nước lạnh mà luôn phải tắm nước nóng hoặc nước ấm, hay mẫn cảm với môi trường xung quang hay là không thích thay đổi môi trường sống, không ra được mồ hôi…đó là những triệu chứng của việc giảm thân nhiệt và nếu chúng ta có 1 vài triệu chứng nêu trên thì phải nhanh chóng nỗ lực đấu tranh để đẩy khí lạnh ra ngoài trước khi các bệnh tật phát triển mạnh lên gây hại cho cơ thể.
Phương pháp nhận biết khí lạnh đang ngự trị trong cơ thể ta qua những triệu chứng xuất hiện toàn thân.
Đây là những triệu chứng giúp ta nhận biết cơ thể ta đang trong tình trạng ấm áp hay đang bị lạnh (giảm thân nhiệt) Nếu trong 54 triệu chứng dưới đây mà bản thân mình có 10 triệu chứng thì chứng tỏ rẳng bạn đang bắt đầu bị giảm thân nhiệt, nếu bạn có 15 triệu chứng thì bạn phải nhanh chóng bằng mọi cách phải tăng cường thân nhiệt, bổ sung hơi ấm, nếu bạn có đến 20 triệu chứng thì bạn phải nhanh chóng đã bị mất thân nhiệt lớn và trong tình trạng đang bị bệnh, bạn phải nhanh chóng điều trị bệnh trước khi nó phát triển không thể cứu chữa.
Những triệu chứng xuất hiện ở đầu và ở mặt.
Xuất hiện quầng thâm dưới mắt, ù tai, hôi miệng, môi thâm, chảy máu nứu răng, chảy máu cam, mọc mụn, nám, các bệnh về da xuất hiện trên mặt, mặt dễ bị đỏ, ra mồ hôi nhiều ở mặt, đỏ lòng bàn tay, giãn tĩnh mạch, chóng mặt, hay quên, giảm trí nhớ.
Những triệu chứng xuất hiện toàn thân
Đau đầu, đau vai, đau cách tay và cùi trỏ, đau đầu gối, đau lưng, đau các khớp, đau bao tử, đau bụng.
Những triệu chứng biểu hiện bằng tinh thần
Trầm cảm, rất hay nổi cáu cho dù là những việc rất nhỏ nhặt, luôn bồn chồn lo lắng, tâm trạng bất an, dễ bị kích động, mất ngủ, nghẹn ở cổ, khó thở, hồi hộp, ngộp ngạt, tim đập nhanh, rất dễ bị stress.
Những triệu chứng xuất hiện ở thân dưới
Lạnh bụng dưới, rối loạn cương dương, xuất tinh sớm, đau bụng kinh, rối loạn kinh nguyệt, tiêu chảy, táo bón, tiểu gắt, bí tiểu, trĩ, viêm bàng quang, lạnh chân, phù chân, vọp bẻ chân, giãn tĩnh mạch.
Những triệu chứng khác
Bị béo phì toàn thân hoặc mỡ bụng. Mồ hôi ra quá nhiều toàn thân hay chỉ ở 1 vài bộ phận (lúc bình thường), dễ bị bầm tím.
Thêm nhận xét